- Sinh học và nghệ thuật
- Động vật có vú: Chỉ dẫn về các loài còn sinh tồn
- Người và rắn (đồng tác giả)
- Người và vượn (đồng tác giả)
- Người và gấu trúc (đồng tác giả)
- Thời đại vườn thú
- Tập tính học linh trưởng (biên soạn)
- Vườn thú người
- Các kiểu tập tính sinh sản
- Tập tính gần gũi cơ thể
- Theo dõi người: Chỉ dẫn tại chỗ về tập tính của người
- Các tư thế: Nguồn gốc và sự phân loại (đồng tác giả)
- Những ngày động vật (tự truyện)
- Bộ lạc bóng đá
- Gấu trúc lớn (đồng tác giả)
- Trong đá (tiểu thuyết)
- Cuốn sách về các lứa tuổi
- Nghệ thuật Síp cổ đại
- Theo dõi cơ thể: Chỉ dẫn tại chỗ về loài người
- Theo dõi mèo
- Theo dõi chó
- Nhà siêu thực bí ẩn
- Kiến thức truyền thống về mèo
- Kẻ xây tổ người
- Theo dõi ngựa
- Khế ước động vật
- Theo dõi động vật: Chỉ dẫn tại chỗ về tập tính động vật
- Theo dõi trẻ
- Theo dõi lễ hội Noel
- Thế giới của các con vật
- Bộ ba Vượn trần trụi
- Con vật người: Quan điểm cá nhân về loài người
- Tiếng nói của cơ thể: Chỉ dẫn trần tục về các tư thế
- Thế giới mèo: Bách khoa toàn thư họ mèo
- Các giới: Lịch sử tự nhiên của đàn ông và đàn bà
- Những con mèo lãnh đạm: 100 giống mèo trên thế giới
- Các vệ sĩ của cơ thể: Bùa và ngải
- Vượn trần trụi và hành vi dùng mỹ phẩm (bằng tiếng Nhật)
- Mắt trần (tự truyện)
- Chó: Từ điển các giống chó
- Theo dõi của người
- Ngôn ngữ thầm lặng (bằng tiếng Ý)
- Bản chất của hạnh phúc (bằng tiếng Ý)
- Đàn bà trần trụi
- Đàn ông trần trụi

Danh sách chương
Phần I – LẠC TRONG VŨ TRỤ: Chương 1. VŨ TRỤ
Phần II – KÍCH CỠ TRÁI ĐẤT. 4. KÍCH CỠ CỦA VẠN VẬT
Chương 6. KHOA HỌC TRONG NHỮNG CHIẾC RĂNG VÀ XƯƠNG HÀM
Phần III – THỜI ĐẠI MỚI: Chương 8. VŨ TRỤ CỦA EINSTEIN
Chương 9. NGUYÊN TỬ PHI THƯỜNG
Chương 11. HẠT QUARK CỦA MUSTER MARK
Chương 12. TRÁI ĐẤT CHUYỂN ĐỘNG
Phần IV – HÀNH TINH NGUY HIỂM: Chương 13. PĂNG!
Phần V – SỰ SỐNG: Chương 14. HÀNH TINH ĐƠN ĐỘC
Chương 20. THẾ GIỚI VI SINH VẬT
Chương 25. THUYẾT TIẾN HÓA CỦA DARWIN
Chương 26. CHẤT LIỆU CẤU THÀNH SỰ SỐNG
Phần VI – CHẶNG ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐÃ QUA: Chương 27. CÁC THỜI KỲ BĂNG HÀ
Chương 28. ĐỘNG VẬT HAI CHÂN BÍ ẨN
Chương 29. LOÀI KHỈ KHÔNG ĐUÔI HIẾU ĐỘNG
Một trong những cuốn nằm trong danh sách sách bán chạy nhất trên tờ New York Times trong suốt sáu tháng!
“Cuốn sách kinh điển nhất, hay nhất, hấp dẫn nhất về khoa học hiện đại”.
– New York Times Book Review
“Bill Bryson giúp khoa học trở thành một đề tài thú vị và hấp dẫn… Nhiều câu hỏi của bạn về vũ trụ và thế giới sẽ được trả lời trong sách này”.
– Boston Globe
Trong cuốn Lịch Sử Vạn Vật, tác giả Bill Bryson phải đối mặt với thử thách lớn nhất: tìm hiểu – và nếu có thể trả lời – những vấn đề to lớn nhất, xa xưa nhất mà chúng ta đặt ra về vũ trụ và bản thân con người. Từ Big Bang cho đến sự xuất hiện của nền văn minh, Bryson tìm hiểu tại sao chúng ta biến đổi từ cái hư vô thành cái có thực, loài người xuất hiện như thế nào. Để làm được điều này, ông phải dày công tìm đến các nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới thuộc các ngành: khảo cổ học, cổ sinh vật học, vật lý học, thiên văn học, nhân loại học, toán học; tại các văn phòng, trạm và phòng thí nghiệm của họ. Lịch Sử Vạn Vật là tập hợp toàn bộ cuộc điều nghiên này, đây là cuộc hành trình thú vị nhất trong lĩnh vực kiến thức nhân loại và chỉ Bill Bryson mới có thể làm được điều này.
“Đây là những đáp án cho những câu hỏi ngớ ngẩn nhất mà bạn thường ngại đặt ra tại các lớp học… Bryson giúp nội dung cuốn sách trở nên dí dỏm và sâu sắc hơn…”
– People
“Lịch Sử Vạn Vật tập hợp những hiểu biết tuyệt vời nhất, và sẽ tốt hơn cho công tác giảng dạy tại nhà trường nếu cuốn sách này được đưa vào chương trình giảng dạy”.
– Times Literary Supplement

– Vì sao chiếc bánh vòng lại có lỗ ở giữa?
– Vì sao người ta lại ăn bánh mì làm từ rơm, đất sét và vỏ cây?
– Nền văn mình nào đã từng sử dụng bánh mì làm tiền tệ?
Để tìm kiếm câu trả lời thú vị cho những câu hỏi trên và biết thêm những điều thú vị khác, bạn hãy đón xem quyển sách Câu chuyện phía sau Bánh mì trong bộ sách Câu chuyện phía sau.

– Thực phẩm của các vị thần là gì?
– Người Aztec đã làm chocolate sủi bọt bằng cách nào?
– Bánh quy chocolate chip được làm ra sao?
Để tìm kiếm câu trả lời thú vị cho những câu hỏi trên và biết thêm những điều thú vị khác, bạn hãy đón xem quyển sách Câu chuyện phía sau Chocolate trong bộ sách Câu chuyện phía sau.

– Bạn có thể tìm thấy bồn cầu 12 chỗ ngồi ở đâu?
– Vì sao hào nước quanh lâu đài lại có mùi kinh khủng?
– “Sự Hôi Thối Khủng Khiếp” là gì?
Để tìm kiếm câu trả lời thú vị cho những câu hỏi trên và biết thêm những điều thú vị khác, bạn hãy đón xem quyển sách Câu chuyện phía sau Nhà vệ sinh trong bộ sách Câu chuyện phía sau.

– Trái đất bao nhiêu tuổi?
– Hộp thời gian là gì?
– Làm thế nào người Ai Cập có thể đoán được thời gian?
Để tìm kiếm câu trả lời thú vị cho những câu hỏi trên và biết thêm những điều thú vị khác, bạn hãy đón xem quyển sách Câu chuyện phía sau Thời gian trong bộ sách Câu chuyện phía sau.

– Làm thế nào bột gỗ biến thành giấy?
– Thủy ấn là gì?
– Bạn có thể tiết kiệm giấy bằng cách nào?
Để tìm kiếm câu trả lời thú vị cho những câu hỏi trên và biết thêm những điều thú vị khác, bạn hãy đón xem quyển sách Câu chuyện phía sau Giấy trong bộ sách Câu chuyện phía sau.

Chữ viết đến với chúng ta xuyên qua hàng ngàn năm của cuộc hành trình vĩ đại của nhân loại, để kể với chúng ta về con người trong quá khứ. Nhân loại đã trải qua một con đường dài – từ ngày muốn thông tin với nhau còn phải dùng ngôn ngữ của điệu bộ hoặc vẽ hình ảnh… Ngày nay, hàng ngàn nhật báo, hàng ngàn tạp chí, hàng vạn quyển sách ồ ạt rời khỏi nhà in.
Triệu triệu tờ báo được bán ra mỗi ngày và trên toàn thế giới, triệu triệu quyển sách được xuất bản mỗi năm. Chỉ riêng ở Việt Nam, báo định kỳ, tạp chí, đặc san chuyên ngành cũng đã lên đến con số trên năm trăm. Và cả nước có gần 60 Nhà xuất bản thì mỗi năm in ra cũng hàng triệu bản in. Do đó, không phải ngẫu nhiên có một học giả uyên bác nhận định: “Sự phát minh của chữ viết, chỉ riêng nó thôi, còn quan trọng hơn toàn bộ những trận đánh trên toàn thế giới”.
Hành Trình Chữ Viết ra đời chính từ tầm quan trọng lớn lao của chữ viết, nhằm thỏa mãn nhu cầu phổ thông dành cho độc giả trẻ, nhất là các bạn thanh thiếu niên.

1)Về tác giả
Trịnh Xuân Thuận (sinh năm 1948) là một nhà khoa học người Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực vật lý thiên văn, một nhà văn đã viết nhiều quyển sách có giá trị cao về vũ trụ học và về những suy nghĩ của ông trong tương quan giữa khoa học và Phật giáo. Ông còn là một nhà thơ, một triết gia, một Phật tử và một nhà hoạt động cho môi trường và hòa bình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng trong lĩnh vực thiên văn và trong lĩnh vực văn hoá xã hội.
2) Về tác phẩm:
Trong cuốn sách này, nhà vật lý thiên văn nổi tiếng Trịnh Xuân Thuận sẽ trả lời những câu hỏi hấp dẫn trên và nhiều câu hỏi khác nữa theo những trải nghiệm riêng của bản thân ông.
Số phận đã đặt ông vào nơi hợp lưu của ba nền văn hoá: xuất thân từ một gia đình nho giáo Việt Nam thấm đẫm truyền thống Phật giáo và Khổng giáo, ông đã được hưởng trọn vẹn nền giáo dục Pháp, và được đào tạo về khoa học theo kiểu Mỹ. Một sự giàu có và đa dạng như thế về các quan điểm đã cho phép GS. Trịnh Xuân Thuận cung cấp cho chúng ta, không phải những câu trả lời cao siêu dựa trên vốn kiến thức uyên thâm của ông, mà là những suy tư mà ai cũng có thể tiếp cận được, chúng cho phép chúng ta tham gia vào cuộc phiêu lưu vĩ đại của vật lý thiên văn từ hơn một thế kỷ nay. Giữa Vũ trụ, mà khoa học mỗi ngày lại hé lộ thêm với chúng ta, và “Hoa sen” của minh triết phương Đông, Trịnh Xuân Thuận đã mời gọi chúng ta hãy mượn con đường trí tuệ rộng mở.
3) Mục lục
Lời nhà xuất bản
PhẦn I
TÔI LÀ AI: SỰ HỢP LƯU CỦA BA NỀN VĂN HÓA
Một nền giáo dục kiểu Pháp
Kế thừa truyền thống Nho giáo
Cuộc chiến tranh chống Mỹ
Thời niên thiếu hạnh phúc và chăm chỉ
Tướng De Gaulle đã gửi tôi sang Thụy Sĩ như thế nào…
… và tuyết đã khiến tôi chọn mặt trời California ra sao
Những giáo sư ngoại hạng
Cái bóng của Hubble
Những bước chập chững nghiên cứu đầu tiên
Một xã hội sôi động
Học cách nghiên cứu
Cha đẻ của kính thiên văn không gian Hubble
Tiếng gọi của bầu trời
Trở về quê hương đang chiến tranh
Đi tìm tương lai của vũ trụ
Tin xấu từ Việt Nam
Thomas Jefferson và Đại học Virginia
Tại sao lại là nước Mỹ?
Khi điều không thể tin được xảy ra
Từ các thiên hà sơ sinh tới vật chất tối của vũ trụ
Cuộc sống của một nhà nghiên cứu không còn như xưa
Tại sao tôi sử dụng tiếng Pháp, tại sao tôi lại viết cho công chúng
Trở lại quê hương
Con người và số phận của nó
PHẦN II
TÔI NGHIÊN CỨU GÌ: KHOA HỌC Ở MỌI TRẠNG THÁI CỦA NÓ
Thế giới không phải là một giấc mơ và ánh sáng là sứ giả của nó
Thế giới tuyệt đẹp…
… và có trật tự
Linh hồn của các định luật
Hai cấp độ của thực tại
Các định luật vật lí được phát hiện hay phát minh?
Thiên nhiên nói bằng toán học
Chớp sáng khoa học
Định kiến khoa học và tri thức khách quan
Trò lừa của Sokal
Phương pháp khoa học
Giai điệu bí ẩn của vũ trụ
Vẻ đẹp của một lí thuyết
Vũ trụ tất định, quy giản của Newton và Laplace
Sự thâm nhập của thời gian và lịch sử
Hỗn độn đem lại tự do cho tự nhiên
Sự nhòe mờ lượng tử
Tái hồi liên minh giữa con người và vũ trụ
PHẦN III
TÔI TIN GÌ: LƯỢNG TỬ VÀ HOA SEN
Khoa học không có gì để nói về cách chúng ta sống
Khoa học và Phật giáo: nơi giao cắt của những con đường
“Hãy xem xét sự đúng đắn trong các lời dạy của ta…”
Sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng
Con lắc Foucault
Con đẻ của các vì sao và anh em với cá heo
Tính không: sự thiếu vắng một thực tại nội tại
Vô thường ở ngay trong lòng thực tại
Bóng ma Copernicus và nguyên lí vị nhân
Ngẫu nhiên hay tất yếu?
Con người và vũ trụ cộng sinh chặt chẽ
Nguyên lí sáng tạo hay vũ trụ không có điểm khởi đầu?
Các làn sóng ý thức hay các gói nơron?
Bức bích họa vũ trụ vĩ đại về nguồn gốc của chúng ta, nguồn cảm hứng và minh triết
Trách nhiệm của nhà khoa học
Liệu sáng tạo khoa học có cần phải được kiểm soát?
Biết chưa đủ để hiểu thấu thực tại
Khoa học cho tôi tự do
4) Điểm nhấn
“…Khoa học về bản chất của vũ trụ, về nguồn gốc và tương lai của nó thực sự nói với chúng ta điều gì? Do nguyên nhân bí ẩn nào mà ngôn ngữ toán học, một sáng tạo thuần túy của trí óc con người, lại tỏ ra vô cùng hiệu quả trong việc mô tả các hiện tượng vật lý, từ những cái vô cùng bé tới những cái vô cùng lớn? Nếu quả thật tồn tại một trật tự của thế giới, thì những cái mà vật lý lượng tử và thuyết tương đối nói với chúng ta liệu có tương thích với những điều mà đạo Phật truyền giảng? Và chúng ta có thể rút ra những kết luận gì về cuộc sống riêng của chúng ta?”
(Vũ trụ và hoa sen, Trịnh Xuân Thuận, Phạm Văn Thiều, Phạm Nguyễn Việt Hưng, NXB Tri thức, 2013).

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập sách nhỏ về “Văn hóa rượu vang” của ThS. Tô Việt, chuyên gia cao cấp về văn hóa rượu vang, thành viên tổ chức thử nếm rượu vang Quốc tế (ASI). Trong thời gian vừa qua, anh đã dành rất nhiều tâm huyết cho việc quảng bá văn hóa rượu vang ở nước ta, góp phần tăng cường giao lưu văn hóa, văn hóa ẩm thực và kinh tế của Việt Nam với thế giới trong thời đại hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Anh Việt đã được nhiều nơi mời đến giảng dạy những kiến thức về cây nho, công nghệ sản xuất rượu vang truyền thống của Châu Âu, phong cách phục vụ rượu vang tại nhà hàng, khách sạn, quán bar… như tại các trung tâm đào tạo, các hệ thống nhà hàng, khách sạn danh tiếng ở Việt Nam để góp phần tạo ra sản phẩm ẩm thực và du lịch hoàn chỉnh, cùng với những giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, thu hút ngày càng nhiều du khách quốc tế đến với nước ta.
Cuốn sách nhỏ, nhưng quy nạp nhiều kiến thức tích lũy từ quá trình tham gia trực tiếp nghiên cứu về văn hóa rượu vang ở Pháp, Anh, Italia…, cùng nhiều hình ảnh minh họa sinh động, hy vọng sẽ mang lại nhiều thông tin hữu ích và nguồn cảm hứng cho tất cả những ai quan tâm đến rượu vang.
Thực ra, văn hóa rượu đã có từ lâu trong tổng thể văn hóa ẩm thực dân tộc. Tuy nhiên, về rượu vang thì còn ít người sành biết trong cảm thụ, thưởng thức. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ du lịch, dòng khách nước ngoài vào đầu tư, làm ăn và đi du lịch ở Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, việc nâng cao kiến thức về văn hóa rượu vang cùng một loạt các ngành kinh tế dịch vụ như: du lịch, nhà hàng, khách sạn, phục vụ hành khách, hàng không, đường sắt, đường thủy… và bản thân người phục vụ cho du khách biết thưởng ngoạn rượu vang là rất cần thiết.
Sau nhiều năm công tác ở nước ngoài trong lĩnh vực văn hóa rượu vang, tôi muốn dành tất cả tâm huyết của mình để giới thiệu với độc giả trong nước về vấn đề này. Tôi đã có một quá trình làm việc lâu dài ở Pháp, Monaco và Anh, tại các khách sạn nổi tiếng như “Grand Hotel du Cap Ferrat”, “Le Chateau du Domaine Saint – Martin”, “Belles – Rives”, “Monte Carlo Beach”, tổ hợp khách sạn Hotel du Vin của ông Gérard Basset, chuyên gia rượu giỏi nhất Châu Âu năm 1996, thứ nhì thế giới năm 1992 và 2004.
Là thành viên liên đoàn thử nếm rượu vang quốc tế (ASI), tôi đã giảng dạy về văn hóa rượu vang ở nhiều nước. Tại Việt Nam, tôi được vinh dự tham gia giảng về văn hóa rượu vang ở Đại học Đà Lạt, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh, Trường Du lịch – Khách sạn Hoa Sữa Hà Nội, Trường Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao, tập đoàn khách sạn Accord – Sofitel ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Lạt, đoàn tiếp viên hãng hàng không Quốc gia Việt Nam, công ty Nông sản – Thực phẩm – Thương mại Đà Lạt, trong khuôn khổ chương trình văn hóa rượu vang (FPS Việt Nam) do tôi làm giám đốc trong 2 năm 2004 và 2005. Các khóa học đã thực sự mang lại các kiến thức cần thiết và những điều lý thú về lịch sử cây nho và rượu vang, cách làm rượu vang, các vùng rượu vang nổi tiếng trên thế giới, rượu vang và sức khỏe, và nhất là kỹ năng thử nếm và phục vụ rượu vang.
Tôi đặc biệt trân trọng cám ơn các đồng nghiệp như ông G. Vaccarini (Italia), chuyên gia rượu giỏi nhất thế giới năm 1978, Hiệp hội Chuyên gia thử nếm rượu vang quốc tế (ASI), Hội Adaly thành phố Montpellier, Hội đồng hành chính vùng Languedoc – Roussillon, ông bà Nguyễn Văn Luật – Đinh Thu Hường và công ty Thiên Linh Wine&Spirits, công ty TNHH Nông sản Thực phẩm – Thương mại Đà Lạt, ông Youri Korsakov và công ty Aple, ông Đỗ Vĩnh Bảo và Trường Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh, ông Sylvain Bournigault và công ty Les Celliers d’Asie, bà Ngô Thị Hiếu Thảo và cơ quan Sopexa Việt Nam, bà Béatrice Tauziède và phòng thương mại Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, các bạn phóng viên báo chí và truyền hình Minh Diệu, Bích Diệp, Phương Anh, Lan Anh, Kim Dung, Kim Hoa, Thu Huyền, Lan Hương, Vân Nga, Tuyết Mai, Quang Tâm, Ngọc Bảo … đã dành cho tôi sự giúp đỡ quý báu trong thời gian giảng dạy tại Việt Nam và xuất bản cuốn sách này.
Là lần đầu tiên xuất bản bằng tiếng Việt, nên cuốn sách không tránh khỏi những sơ suất, mong được bạn đọc góp ý kiến, phê bình. Chúng tôi xin chân thành cám ơn.

Nguyễn Hiến Lê là một học giả, một nhà văn lớn của Việt Nam. Ông là tác giả của hơn 100 công trình văn học, văn hóa, văn chương Việt Nam, Anh, Pháp, Trung Quốc. Tác phẩm của ông là những đóng góp lớn cho văn hóa sử Việt Nam hiện đại.
Bộ sách Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê do Nguyễn Q. Thắng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu.
Bộ sách Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê gồm có 4 cuốn: Triết học, Sử học, Ngữ học, Văn học
Tập III : Ngôn ngữ học
Trong tuyển tập này, các bạn sẽ được giới thiệu các quyển: “Để hiểu văn phạm” là quyển văn phạm Việt Nam phổ thông sớm nhất thoát ly khỏi ảnh hưởng văn phạm Pháp; “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam”, tác giả trình bày một quan điểm độc đáo về từ tính và từ vụ. Quan điểm này phù hợp với tinh thần tiếng Việt; “Chúng tôi tập viết tiếng Việt” là một số bài viết về cách sử dụng và hành văn của tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, tuyển tập còn trích đăng một số bài báo của tác giả về Ngôn ngữ học Việt Nam. Hy vọng sách sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về ngôn ngữ học.
Tập III : Ngôn ngữ học gồm các quyển:
– Để hiểu văn phạm
– Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam
– Chúng tôi tập viết tiếng Việt
– Luyện Văn (I, II, III)
Và một số bài báo về Ngôn ngữ học Việt Nam
– Đọc Ngôn ngữ học Việt Nam của Nguyễn Bạt Tụy (1959)
– Ngữ pháp là gì? (1962)
– Cách dùng tiếng “Đâu” trong truyện Kiều (1966)
– Nửa thế kỷ chánh tả Việt ngữ (1968)
– Bộ Việt Nam từ điển của ông Lê Văn Đức (1970)
– Góp ý về việc thống nhất tiếng Việt (1976)
Riêng hai cuốn “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam” và “Chúng tôi tập viết tiếng Việt”, tác giả soạn chung, nhưng chúng tôi vẫn đưa vào tuyển tập III này.

Với Albert Camus đưa chuyện thần thoại qua nhân vật Sisyphus là chấp nhận đấng thần linh hung ác, tàn bạo. Đó là một chủ nghĩa vô thần và giáo điều bất-khả-tri. Có lẽ; thần thoại nầy là nơi dung thân trên đất Pháp nhiều hơn, một giáo thuyết mơ hồ và cạn cợt có chất hoang đường; điều đó nói lên một cái gì có tính triết lý (?).
Camus không cho đây là tính triết lý mà là chuyện kể. Nó được coi là khuynh hướng cứng rắn như đinh đóng cột (hob-nailed) chống lại những tu sĩ hoặc đôi khi cũng có đôi điều phải trái, lý giải của nhóm duy lý. Có một chút biến đổi giữa cái vô tư duyên dáng và một chút biến đổi của sai trái, cứng đầu. Trong tự điển triêt học hình như Voltaire cho đây là một sự mỉa mai, nhạo báng, mà trong cõi tiên thiên thánh giáo cổ tích đã thay mặt một điều gì để nói lên cái tợ như nhau, kiểu thức so sánh (likened) là một sắp xếp dàn dựng cho một hình ảnh thần tượng sẽ không còn một nhầm lẫn nào hơn. Một cái gì ấp ủ trong tổ kén tơ tằm.
Suốt tập sách nầy, Camus cho chúng ta hiểu rằng cái chết sẽ đến bất ngờ trong cuộc đời đang sống, một cái gì đứt ngang; theo Camus cái chết dường như luôn đứng bên cạnh và sẳn sàng chấm dứt sự sống của chúng ta một cách bất ngờ to tát, giết chết ký ức ta tức thời, tiếng gọi của tử thần như phán quyết: ‘Anh sẽ không còn thấy gì, anh không còn một kinh nghiệm nào hơn mà anh đã từng trải. Anh không còn sống’. Có một ít dấu hiệu mạnh trong tư duy của Camus là tôn giáo hơn là cảm thức cho một cái chết đặt ra trong vấn đề siêu hình dành cho cuộc đời: Chết chỉ là bóng tối ụp tới, tiếp nối cho một cái vô nghĩa – nó chỉ là công việc giản đơn, như việc đã làm, một dấu ấn nhỏ như đánh dấu một cuộc đời nhỏ nhen, ngắn ngủi. Với tôn giáo cái chết là vấn đề quan trọng đối với họ, bởi họ tin cuộc đời có nhiều chất liệu hiện hữu và sinh tồn mà nay không còn nữa. Camus cho cái chết chế ngự chúng ta.
***
Trong thần thoại Hy Lạp, Sisyphus bị các vị thần trừng phạt phải suốt đời phải đẩy một khối đá lớn lên đỉnh núi; khi lên tới đỉnh, anh phải đứng nhìn khối đá lăn xuống chân núi, và Sisyphus phải trở xuống đẩy hòn đá lên đỉnh, cứ như vậy. Với Albert Camus, nhà văn đoạt giải Nobel năm 1957, cuộc đời của Sisyphus đại diện cho bi kịch cuộc sống của đa số chúng ta: là con người có ý thức, về cơ bản đều muốn sống một cuộc đời tử tế (cao cả nếu có thể) nhưng cuối cùng thường bị “trừng phạt” bằng một cuộc đời với những lặp lại vô nghĩa. Càng là anh hùng, càng muốn vươn tới sự cao cả, tử tế, cái bi kịch này dường như càng rõ và càng lớn. Và như thế, Albert Camus hỏi: Sống để làm gì?
Câu hỏi quan trọng và khó, thậm chí quá khó. Đứng về mô hình, thì cả hành trình sống lẫn đích của hành trình sống – cái chết – khiến toàn bộ mô hình dường như trở nên phi lý, vô nghĩa. Cho nên, với đa số chúng ta, câu hỏi “Sống để làm gì?” trở thành một câu hỏi tu từ chỉ để cười trừ. Có nghĩa hay không có nghĩa, đa số chúng ta hiểu rằng mình phải sống. Cái hiểu này trở thành một bi kịch vì cùng với cái hiểu đó, ta hiểu thêm rằng mình không đủ can đảm (hoặc không đủ hèn nhát) để tự chấm dứt sự sống của mình, do đó ta chới với trong sự phi lý của tồn tại. Với một số nhỏ, câu hỏi này đưa tới câu trả lời quyết liệt bằng hành động: tự tử – một hành vi mà Camus cho là vấn đề triết học duy nhất đáng quan tâm.
Với những người không chọn hai cách trên mà muốn xem xét câu hỏi một cách nghiêm túc – họ thường đi tới hai xu hướng: hoặc tìm thấy câu trả lời ở một đấng siêu nhiên (ví dụ như Chúa) hoặc đi tới sự duy lý cực đoan mà rốt ráo cũng chỉ là một thứ đức tin khác – tin rằng con người làm chủ cuộc sống của mình, và do đó câu hỏi “Sống để làm gì?” trở thành một đối tượng của trò chơi tư duy lý tính, chứ không phải một cuộc truy tìm ý nghĩa. Hỏi về ý nghĩa của cuộc sống – với một số nhà triết học – là một câu hỏi dở.
Trong Thần thoại Sisyphus, Camus cũng không có câu trả lời rốt ráo, nhưng những suy tư sâu sắc của ông trong việc tìm câu trả lời khiến cuốn sách này rất đáng đọc với bạn đọc thuộc mọi lứa tuổi, nhưng nhất là các bạn đọc trẻ. Ra đời năm 1942, Thần thoại Sisyphus cũng như các tác phẩm văn học của Camus (tiểu thuyết Người Lạ, Dịch Hạch, v.v…) nằm trong trào lưu triết học hiện sinh với những đại diện như Soren Kierkegaard, Jean Paul Satre, Heidegger… Đây có thể coi là một cơn động tâm chung của châu Âu trong giai đoạn sau Chiến tranh thế giới I và trước Chiến tranh thế giới II, khi tôn giáo (Chúa) ngày càng không thể thỏa mãn những câu hỏi của con người hiện đại về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của mình; khi châu Âu phải chứng kiến sự tiêu vong đột ngột và khả năng tiếp tục tiêu vong, dấn thân, hy sinh (vô nghĩa?) của hàng triệu người trong những chuyển động lịch sử mà không ai có thể cam đoan là những chuyển động có sắp đặt và có ý nghĩa. Triết học phi lý của Camus, cùng với trào lưu triết học hiện sinh, có thể được hiểu như một nỗ lực cắt nghĩa câu hỏi “Sống để làm gì?” nhằm tránh biến mình thành nạn nhân vô ý thức trong cơn lốc xoáy của lịch sử.
Tuy nhiên, khác với các tác phẩm triết học, Thần thoại Sisyphus là một cuốn tiểu luận triết của một nhà văn thông thái và thông minh; do đó nó chứa những biện luận triết lý trong cái vỏ của những khám phá trực tâm, nhạy cảm, được viết dễ hiểu và đẹp. Trong cuốn sách chỉ hơn 100 trang, Camus trình bày các luận điểm của ông về một thứ triết học mà ông gọi là triết học phi lý (Tư duy phi lý, Con người phi lý, Sáng tạo phi lý); đồng thời xem xét sự áp dụng của triết học đó vào những ca cụ thể, ví dụ Don Juan. Nếu như ta kết luận rằng cả hành trình lẫn đích của hành trình sống – là cái chết – đều phi lý, thì có gì khác nhau nếu một người cư xử như Don Juan hay như Magnum? Don Juan điên rồ hay khôn ngoan tuyệt vời? Don Juan phù phiếm hay thông thái? Don Juan coi thường cuộc sống hay nhìn xuyên qua được tính phi lý (vô thường?) của cuộc sống?
Với Camus, không nên tìm câu trả lời cho câu hỏi “Sống để làm gì?” ở mô hình tổng quan bởi vì điều đó đồng nghĩa với mặc định có sự hình thành có ý thức và có nghĩa của mô hình tổng quan – một mặc định lập tức biến câu hỏi về mục đích trở thành câu hỏi vòng tròn kiểu con gà và quả trứng. Camus xử lý câu hỏi bằng cách nhận rõ rằng mô hình chỉ là sự tồn tại – có thể hoàn toàn rời rạc – của các lát cắt ngang về thời gian mà ta cảm tưởng (ảo tưởng) là liên tục. Nói cách khác, cuộc sống là phép cộng khổng lồ của các thời điểm sống. Khi xem xét như thế, trong mỗi thời điểm, ta có thể khả dĩ trả lời câu hỏi “Sống để làm gì?”. Với Sisyphus, hãy xem xét thời điểm anh buông tay, đứng nhìn khối đá lăn xuống, hoàn toàn ý thức được việc mình phải đi xuống chân núi đẩy khối đá trở lại. Đấy là đỉnh cao của sự phi lý. Nhưng chính vì Sisyphus ý thức được điều đó, Sisyphus làm chủ, nên Sisyphus trở nên có nghĩa với anh, cuộc đời anh có nghĩa với anh, thuộc về anh – chứ không phải và không cần phải có nghĩa với một tổng thể vũ trụ hay một ai khác cao hơn. Công nhận sự thật – dù là sự thật về sự phi lý – chính là hành vi xóa bỏ sự phi lý.
“Con người phi lý, khi suy tư về sự đau khổ của mình, làm im tiếng tất cả thần tượng. Bản thân sự vật lộn đã đủ để lấp đầy trái tim anh ta. Ta buộc phải hình dung rằng Sisyphus hạnh phúc.” – Camus viết.
Phi lý hay không phi lý, ta phải hình dung rằng sống, về cơ bản, là hạnh phúc.
Trân trọng giới thiệu với bạn đọc của tủ sách Cánh Cửa Mở Rộng tác phẩm Thần thoại Sisyphus của nhà văn Albert Camus, qua bản dịch của dịch giả Trương Thị Hoàng Yến – Phong Sa.

CUỐN SÁCH MÀ KHÔNG CON VẬT NGƯỜI NÀO DÁM BỎ QUA.
Ở đây là con Vượn Trần trụi với tất cả những gì nền tảng nhất của nó – trong tình yêu, trong công việc và trong chiến tranh. Tìm hiểu con vật người đúng như bản chất vốn có của nó: là họ hàng của những con vượn, bị cởi bỏ khỏi cái mã văn minh bề ngoài khi chúng ta nhìn nó tán tỉnh bạn tình, yêu đương, ngủ, giao tiếp xã hội, chải chuốt, chơi trò chơi gia đình.
Tác phẩm kinh điển của nhà động vật học Desmond Morris, cùng với Nguồn gốc muôn loài của Darwin, đã thể hiện con người không phải như một thiên thần sa ngã mà là một con vượn mới lên ngôi, đầy dẻo dai, nghị lực và trí tưởng tượng, tuy vậy vẫn chỉ là một con vật đang có nguy cơ quên mất nguồn gốc của mình.
Với sự hiểu biết thấu suốt vào các căn nguyên, cuộc sống tình dục, các thói quen của con người và các ràng buộc đáng ngạc nhiên của chúng ta với thế giới động vật, tác phẩm ăn khách nhưng cũng gây vô vàn tranh cãi Vượn trần trụi là cột mốc lớn trên chặng đường con người tìm hiểu bản thân mình.
Desmond Morris sinh năm 1928 tại Wiltshire. Sau khi tốt nghiệp Đại học Birmingham chuyên ngành động vật học, ông đạt được học vị tiến sĩ tại Đại học Oxford. Năm 1959, ông trở thành người phụ trách bộ phận động vật có vú tại Vườn thú London và giữ chức vụ này trong tám năm. Ông là tác giả của khoảng năm mươi bài báo khoa học và bảy cuốn sách trước khi hoàn thành cuốn Vượn trần trụi năm 1967, bán được hơn 10 triệu bản khắp thế giới và được dịch sang rất nhiều thứ tiếng. Ông cũng thực hiện nhiều chương trình truyền hình và phim về tập tính của người và động vật. Cách tiếp cận thân thiện, dễ hiểu khiến ông trở thành nổi tiếng với cả người lớn và trẻ em. Trong số loạt tác phẩm quen thuộc của ông có:
***
Vượn trần trụi được xuất bản lần đầu tiên năm 1967. Mọi điều viết trong đó dường như hiển nhiên đối với tôi, nhưng lại gây sốc cho nhiều người.
Họ khó chịu vì nhiều lý do. Sự bất bình chủ yếu là ở chỗ họ cho rằng tôi đã viết về những con người như thể đấy chỉ là một loài động vật khác để nghiên cứu. Trong vai trò của một nhà động vật học, tôi đã mất tới 20 năm để xem xét tập tính của một loạt các sinh vật, từ cá tới bò sát và từ chim tới thú. Các bài báo khoa học của tôi về các chủ đề từ tập tính tán tỉnh của cá tới sự cặp đôi của chim, cho đến tích trữ thức ăn ở thú đã được một số chuyên gia đọc và ít khi hoặc không gây ra tranh luận. Khi tôi quay sang viết sách cho những độc giả bình dân hơn, về các động vật như rắn, vượn và gấu trúc thì cũng không có gì om sòm. Chúng được một lượng nhỏ độc giả quan tâm đọc và chấp nhận. Nhưng sau đó, khi tôi tiến hành một nghiên cứu tương tự về loài linh trưởng khác thường với làn da trần trụi thì mọi chuyện đã thay đổi hẳn.
Đột nhiên, mọi từ tôi viết ra đã trở thành chủ đề tranh luận nóng bỏng. Con vật người, như tôi đã phát hiện, vẫn còn thấy khó có thể chấp nhận bản tính sinh vật của nó.
Tôi phải thú nhận rằng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình đang giao chiến trong hậu quân của phe Charles Darwin. Sau một thế kỷ tiến bộ khoa học và phát hiện ngày càng nhiều các hóa thạch tổ tiên loài người, tôi cứ tưởng rằng hầu hết mọi người đã sẵn sàng đối mặt với thực tế chúng ta là bộ phận cố hữu của tiến hóa linh trưởng. Tôi cứ nghĩ rằng đầu óc họ đã sẵn sàng thực hiện việc xem xét tỉ mỉ hơn các phẩm chất động vật của mình và học hỏi từ chính chúng. Đó là mục tiêu của cuốn sách này, nhưng chẳng mấy chốc mọi thứ té ra rằng tôi phải tả xung hữu đột mạnh mẽ hơn.
Tại một số nơi trên thế giới, Vượn trần trụi đã bị cấm, các cuốn sách truyền tay nhau ngấm ngầm bị giáo hội tịch thu và đốt, hoặc là ý tưởng loài người tiến hóa bị nhạo báng và cuốn sách được xem như một trò đùa nhạo tệ hại với khiếu thẩm mỹ kinh khủng. Tôi đã bị các bài hệ luận tôn giáo dồn ép tới tấp nhằm buộc tôi “cải tà quy chính”.
Nhật báo Chicago Tribune đã phải hủy bỏ toàn bộ một số ra do những người sở hữu tờ báo cảm thấy chướng tai gai mắt bởi một bài phê bình cuốn sách này đã xuất hiện trên mặt báo. Tại sao họ lại bực mình như vậy? Là vì bài phê bình nói trên có chứa từ “dương vật”.
Dường như sự thẳng thắn về chủ đề tình dục lại là một cái lỗi khác cần phải bới ra trong cuốn sách này. Thế nhưng cũng chính tờ báo đó lại đưa ra các bản tin tràng giang đại hải về bạo lực và giết người. Từ “súng ống” thường xuyên xuất hiện. Như tôi đã chỉ ra vào thời gian đó, một điều kỳ quặc là người ta sẵn sàng đề cập chuyện gì đó bắn chết người, chứ không phải điều gì đó “chụp” lại sự sống.[3] Nhưng ở đây không có chỗ cho lôgic. Bằng cách hoán đổi những con cá và chim của tôi thành những người đàn ông và những người đàn bà, tôi đã đánh thức gã khổng lồ đang ngủ là định kiến của con người.
Ngoài việc bị coi là đã phá vỡ các cấm kị tôn giáo và tình dục, tôi cũng bị kết tội là “biến con người trở thành thú vật” qua việc khẳng định rằng loài người được dẫn dắt bởi các thôi thúc bẩm sinh mạnh mẽ. Điều này công khai chống lại nhiều lý luận tâm lý hợp mốt rằng mọi việc chúng ta làm đều do học tập và phản xạ có điều kiện quyết định.
Người ta cũng tuyên bố rằng tôi đã nêu ra một ý tưởng nguy hiểm về việc nhân loại đã bị mắc kẹt vào các bản năng động vật tàn bạo và không thể thoát ra. Đây là sự hiểu biết lệch lạc khác về những gì tôi đã viết. Không có giải thích chính đáng cho việc tại sao đề xuất của tôi về “các xung lực bản năng động vật” bẩm sinh lại có thể làm cho con người trở nên tàn bạo theo nghĩa xúc phạm ngụ ý trong đó. Chỉ cần liếc qua các chương khác nhau của cuốn sách cũng thấy rằng các kiểu mẫu bẩm sinh tôi đã đề cập tới khi đưa ra các đặc trưng như vậy, chẳng hạn như thôi thúc mạnh mẽ nhằm hình thành các liên kết đôi yêu đương, nhằm chăm sóc con cái của chúng ta, nhằm tìm kiếm các thức ăn khác nhau, nhằm giữ cho bản thân chúng ta sạch sẽ, nhằm giải quyết các tranh chấp bằng sự phô trương và các nghi thức chứ không phải bằng sự đổ máu, và hơn tất thảy, nhằm thể hiện tính vui đùa, tính tò mò và óc sáng tạo. Đó là “các thôi thúc động vật” chính yếu của chúng ta và nói rằng những thôi thúc ấy làm cho chúng ta trở thành dã man hay tàn bạo là cố tình diễn giải sai lệch phương thức động vật học khi xem xét hành vi của con người.
Ngoài ra, còn có sự hiểu sai về mặt chính trị. Người ta cho rằng, một lần nữa lại là lầm lẫn, tôi đã khắc họa loài người theo kiểu quy kết vào một hiện trạng nguyên thủy nào đó. Những người có quan điểm chính trị cực đoan nhìn nhận điều này là sự xúc phạm. Đối với họ, con vật người phải hoàn toàn dễ bảo, có khả năng thích ứng với bất kỳ chế độ nào áp đặt lên nó. Ý tưởng rằng, dưới lớp da, tất cả mọi người đều có thể dẫn dắt bằng một tập hợp các ám thị di truyền được thừa hưởng từ cha mẹ họ, là gớm guốc đối với các bạo chúa chính trị. Có nghĩa là các vị thủ lĩnh này sẽ luôn luôn chạm trán với sự phản kháng ẩn sâu đối với các ý tưởng xã hội cực đoan của họ. Mà như lịch sử dạy chúng ta, đó chính là điều đã xảy ra nhiều lần. Các chính thể chuyên chế có thể được thiết lập, nhưng rồi cũng ra đi. Bản chất con người thân thiện, hợp tác cuối cùng cũng tái khẳng định chính nó.
Cuối cùng, có những người cảm thấy việc gọi con người là “Vượn trần trụi” là sỉ nhục và bi quan. Không có điều gì sai sự thật hơn thế. Tôi sử dụng tiêu đề này đơn giản chỉ để nhấn mạnh rằng tôi đã cố gắng khắc họa chân dung động vật của loài chúng ta. Được xem xét cùng các linh trưởng khác, “Vượn trần trụi” là miêu tả có căn cứ. Quy kết nó là sỉ nhục thì cũng có nghĩa là đang sỉ nhục các con vật. Quy kết nó là bi quan thì cũng có nghĩa là không thấy ấn tượng gì về câu chuyện thành công khác thường của loài động vật có vú được “thiết kế” hết sức khiêm tốn này.
Khi ấn bản có minh họa của Vượn trần trụi được xuất bản năm 1986, người ta đề nghị tôi cập nhật cuốn sách. Chỉ có một sửa đổi tôi cảm thấy cần thực hiện. Tôi đã thay đổi con số 3 thành số 4. Năm 1967, khi cuốn sách lần đầu xuất hiện, dân số thế giới ở mức 3 tỷ. Đến năm 1986, con số này đã tăng lên thành 4 tỷ. Năm 1994, nó lại tăng thêm một lần nữa tới trên 5 tỷ. Vào năm 2000 nó sẽ là 6 tỷ.[4]
Các tác động của sự gia tăng dân số ồ ạt đối với cuộc sống của con người làm tôi lo lắng. Trong hàng triệu năm tiến hóa, chúng ta từng là những sinh vật thưa thớt trên mặt đất, sinh sống trong các bộ lạc nhỏ. Cuộc sống bộ lạc đó nhào nặn chúng ta, nhưng nó không trang bị cho chúng ta để sống trong đô thị hiện đại. Vượn bộ lạc đã thích nghi như thế nào trong vai trò của Vượn đô thị?
Câu hỏi này là chủ đề phần tiếp theo của Vượn trần trụi. Tôi thường nghe thấy người ta nói rằng “đô thị là rừng rậm nhiệt đới bê tông”, nhưng tôi biết điều này không đúng. Tôi từng nghiên cứu các khu rừng nhiệt đới và thấy chúng khác với đô thị. Chúng không quá đông đúc. Chúng có tổ chức và chỉ thay đổi rất chậm. Còn các đô thị sinh sôi nảy nở qua mỗi đêm. Nói theo kiểu sinh học, Roma được xây xong chỉ trong một ngày.[5]
Trong vai trò một nhà động vật học, khi tôi nghiên cứu tập tính của các cư dân đô thị, họ gợi cho tôi một điều gì đó. Sinh sống trong các khu dân cư tù túng của mình, họ không gợi cho tôi liên tưởng đến động vật hoang dã trong rừng rậm nhiệt đới mà lại gợi đến các con vật bị giam hãm trong vườn thú. Đô thị, như tôi đã miêu tả, không phải là rừng nhiệt đới bê tông, mà là vườn thú người, và điều này trở thành tên gọi của quyển hai trong bộ ba tác phẩm Vượn trần trụi.
Trong Vườn thú người tôi xem xét tỉ mỉ hơn các tập tính gây hấn, tình dục và làm cha mẹ của loài chúng ta, như được thể hiện ra dưới các căng thẳng và áp lực của cuộc sống đô thị. Điều gì xảy ra khi bộ lạc trở thành siêu bộ lạc? Điều gì xảy ra khi địa vị trở thành siêu địa vị? Bản năng sinh dục dựa trên gia đình của chúng ta sống sót như thế nào khi mỗi cá nhân bị bao quanh bởi hàng nghìn kẻ xa lạ?
Nếu các đô thị là quá căng thẳng thì tại sao con người lại vẫn tụ tập về đây? Đáp án cho câu hỏi cuối cùng này bổ sung một yếu tố thú vị vào bức tranh đôi khi đáng thất vọng. Vì một đô thị, mặc cho mọi thiếu sót của nó, có vai trò như một trung tâm kích thích khổng lồ, nơi óc sáng tạo vĩ đại của chúng ta có thể bay bổng và phát triển.
Để hoàn thành bộ ba tác phẩm này, trong cuốn sách mang tên gọi Tập tính gần gũi cơ thể,[6] tôi hướng vào chủ đề về những gì đã xảy ra với các mối quan hệ cá nhân của chúng ta trong môi trường mới này. Bản chất tình dục và yêu đương mãnh liệt của chúng ta phản ứng lại với cuộc sống hiện đại như thế nào? Trong các mối quan hệ thân thuộc của chúng ta, những gì đã mất đi và những gì đã đạt được?
Theo nhiều cách, chúng ta vẫn trung thành rõ rệt với nguồn gốc sinh học của mình. Sự lập trình di truyền được chứng minh là linh hoạt, tuy nhiên vẫn đề kháng kém trước những thay đổi lớn. Tại nơi nào mà các quan hệ yêu đương cởi mở trở nên không thể đạt được đối với chúng ta, chúng ta vận dụng óc sáng tạo nghĩ ra các quan hệ thay thế để vượt qua. Tài trí của một loài như chúng ta cho phép chúng ta tận hưởng các tiện nghi kĩ thuật và sự sôi động của cuộc sống hiện đại trong khi vẫn tuân theo được các sai khiến nguyên thủy.
Điều này từng là bí mật về thành công khác thường của chúng ta, và nếu chúng ta may mắn, sẽ cho phép chúng ta tiếp tục tiến bước trên sợi dây tiến hóa chênh vênh ngày càng nguy hiểm. Những ai vẽ ra tương lai như một cảnh quan đổ nát và ô nhiễm đều đang nhầm lẫn. Họ theo dõi các bản tin, chùn lòng trước những điều tồi tệ nhất chúng ta có thể làm và nâng lên hàng nghìn lần nhằm tạo ra kịch bản đầy ảm đạm. Họ bỏ sót hai điều. Thứ nhất, các tin tức được đưa tới cho chúng ta gần như luôn là các tin xấu, nhưng với mỗi hành động bạo lực và phá hoại xảy ra thì lại có hàng triệu hành động thân thiện hòa bình. Quả thật, chúng ta là loài yêu hòa bình đến không ngờ, với dân số khổng lồ của mình nhưng tính hòa bình rộng khắp của chúng ta lại không thể trở thành các đầu đề nổi bật trên báo chí.
Thứ hai, khi mường tượng tương lai, họ thường bỏ qua khả năng xuất hiện các phát minh mới mang tính cách mạng. Mỗi thế hệ đều có các tiến bộ kĩ thuật không ngờ và không có lý do gì để giả định rằng các tiến bộ này sẽ dừng lại đột ngột. Ngược lại, chúng gần như chắc chắn sẽ gia tăng mãnh liệt. Không gì là không thể. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng ra nó, chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ làm được điều đó. Nhưng ngay cả khi chúng ta đã tạo ra các máy tính lớn cồng kềnh thuộc thế hệ đầu tiên trông cũng nguyên thủy như các tấm bảng đất sét[7] thì tự bản thân chúng ta vẫn chẳng là gì hơn là những con Vượn trần trụi, được tạo ra từ máu và thịt. Ngay cả nếu như vì theo đuổi gắt gao sự tiến bộ, chúng ta tiêu diệt toàn bộ các họ hàng động vật gần gũi của mình, thì chúng ta sẽ vẫn cứ là các hiện tượng sinh học, tuân theo các quy luật sinh học.
Với tất cả những ý nghĩ đó trong đầu, tôi vui mừng thấy rằng tác phẩm bộ ba Vượn trần trụi của mình, vốn được xuất bản trong giai đoạn từ năm 1967 tới năm 1971, hiện nay lại được tái bản. Sau 1/4 thế kỉ, thông điệp vẫn là như vậy – bạn là thành viên của loài động vật khác thường nhất đã từng sống trên Trái đất. Hãy hiểu bản chất động vật của mình và chấp nhận nó.